Hướng
dẫn người nuôi áp dụng các biện pháp kỹ thuật để quản lý, chăm sóc thủy sản
nuôi:
- Giống
thả nuôi phải đảm bảo chất lượng, có nguồn gốc rõ ràng, được kiểm dịch thủy sản
theo quy định;
- Tăng
cường bổ sung Vitamin C, khoáng, vi chất, men tiêu hóa, tinh dầu tỏi liều lượng
theo hướng dẫn của nhà sản xuất vào khẩu phần ăn của thủy sản nuôi để nâng cao
sức đề kháng để thích ứng với diễn biến tiêu cực của dịch bệnh, môi trường và
thời tiết nắng nóng dễ gây stress cho thủy sản nuôi;
- Khi
nhiệt độ nước trên 350C hoặc thời tiết thay đổi đột ngột thì cần giảm lượng
thức ăn xuống còn 1/3-1/2 so với bình thường hoặc ngừng cho cá ăn.
- Tăng
cường chuẩn bị sẵn máy bơm, sục khí, máy phát điện, nguyên vật liệu, thuốc xử
lý để sẵn sàng ứng phó khi môi trường nuôi diễn biến xấu. Thường xuyên theo dõi
diễn biến môi trường ao nuôi và lồng nuôi nhất là vào sáng sớm và chiều tối để
phát hiện và xử lý kịp thời những biến động xấu.
- Có kế
hoạch phòng bệnh cho từng đối tượng nuôi, lưu ý không lạm dụng thuốc kháng
sinh, không sử dụng thuốc kháng sinh để phòng bệnh chỉ dùng thuốc khi xác định
rõ nguyên nhân và hướng dẫn từ cán bộ kỹ thuật; thuốc phải có trong danh mục
được phép sử dụng của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
- Đối với nuôi ao:
+ Duy
trì mực nước trong ao thấp nhất từ 1,5 m trở lên để hạn chế sự biến động của
nhiệt độ, pH trong nước ao nuôi;
+ Nắng
nóng kéo dài sẽ tạo điều kiện cho tảo phát triển mạnh, trong ao có hiện tượng
cá nổi đầu do thiếu oxy vào ban đêm và sáng sớm. Do đó cần tăng cường sử dụng
máy bơm nước, máy quạt nước vào ban đêm, đặc biệt từ 10 giờ đêm đến 4 giờ sáng
để tăng hàm lượng oxy hòa tan trong ao.
+ Hàng
tuần nên dùng chế phẩm sinh học để xử lý môi trường giúp tăng cường các vi sinh
vật có lợi trong ao phát triển, hạn chế sinh vật gây hại và giúp thúc đẩy quá
trình phân hủy các hợp chất hữu cơ và giải phóng khí độc trong ao.
- Đối với nuôi lồng bè trên sông:
+ Thường
xuyên vệ sinh lồng bè nuôi sạch sẽ và thông thoáng để lưu thông trong và ngoài
lồng, nhằm tăng cường oxy hòa tan trong nước, giảm vật bám, chất bẩn ở trong
lồng.
+ Khi
mực nước trên sông giảm, cần hạ thấp lồng nuôi hoặc di chuyển lồng nuôi đến nơi
có mực nước sâu để bảo đảm độ sâu luôn ở mức 2,5-3m; đồng thời dùng vôi bột
hoặc viên sủi sát khuẩn cho vào túi vải treo ở các góc lồng nuôi với liều lượng
50g/10 m3 lồng theo định kỳ 15 ngày/lần để phòng bệnh cho cá. Độ sâu treo túi
vôi, viên sủi TCCA bằng 1/3-1/2 độ sâu
mực nước trong lồng nuôi.
+ Thường
xuyên quan sát nước vùng nuôi và cá nuôi, khi thấy nước đục, mầu nước biến đổi
bất thường, cá kém ăn hoặc bơi lội chậm, nhao lên mặt nước cần có biện pháp xử
lý kịp thời tăng cường oxy và đảo nước.
+ Trong
mùa mưa lũ, theo dõi sát sao tình hình thời tiết, chủ động xây dựng phương án
phòng chống lụt, bão, gió dật mạnh. Có phương án di chuyển vào các vụng rộng
không có nước chảy siết khi có dự báo lũ lên cao, bão lớn.
+ Thu
gom và xử lý cá chết theo quy định; không sử dụng cá bị bệnh chết để làm thức
ăn cho đối tượng thủy sản khác.
+ Tiến
hành thu tỉa khi cá nuôi đạt kích cỡ thu hoạch để giảm mật độ nuôi trong lồng.
Lưu ý hạn chế đánh bắt, san thưa, vận chuyển, thả giống vào những ngày nắng
nóng, thời điểm nắng nóng trong ngày.
BBT.