Ngày
thương binh liệt sĩ (ngày 27 tháng 7) là một ngày lễ kỉ niệm được tổ chức hàng
năm nhằm tưởng niệm về những người thương binh, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc
chiến giành độc lập, bảo vệ tổ quốc. Kỷ niệm ngày 27/7 hàng năm là dịp để mỗi
người dân trên cả nước thể hiện truyền thống tốt đẹp uống nước nhớ nguồn, lòng
biết ơn đến những anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì nền độc lập nước nhà. Nhân dịp
kỷ niệm ngày 27/7/2021 (kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh liệt sỹ) Đài Truyền
thanh xã nhà xin chia sẻ đến quý vị và các bạn để các bạn hiểu rõ hơn về ý
nghĩa lịch sử của ngày 27/7 cũng như các hoạt động ý nghĩa trong ngày Thương
binh Liệt sỹ.
* Hoàn cảnh ra đời
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
(nay là nước CHXHCN Việt Nam) ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp
quay lại xâm lược nước ta một lần nữa. Với tinh thần “.... thà hy sinh tất
cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân
và dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại quân xâm lược. Trong những năm đầu
của cuộc kháng chiến quyết liệt chống thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến
sỹ đã ngã xuống, hy sinh một phần xương máu trên các chiến trường. Với
truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, Đảng,
Chính phủ, Bác Hồ và nhân dân ta đã dành tất cả tình thương yêu cho các chiến
sĩ và đồng bào đã vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà bị thương hoặc hy sinh.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị
Thiên), rồi đến Hà Nội và một số địa phương khác... Sau đó ít lâu được đổi
thành Hội giúp binh sĩ bị thương. Ở Trung ương có Tổng Hội và Chủ tịch Hồ Chí
Minh được bầu là Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Ngày 28-5-1946, Hội giúp binh sĩ bị nạn tổ chức một cuộc nói chuyện quan
trọng tại Nhà hát Lớn Hà Nội để kêu gọi mọi người gia nhập Hội và hăng hái giúp
đỡ các chiến sỹ bị thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự.
Ngày 17-11-1946, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên Hiệp Quốc dân Việt
Nam đã tổ chức lễ xung phong “Mùa đông binh sỹ”, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông
binh sỹ” trong cả nước để giúp chiến sỹ trong mùa đông giá rét. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đến dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo đang mặc để tặng binh sỹ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 19-12-1946, theo Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã nhất tề
đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người
bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên, đời sống của chiến sỹ, nhất
là những chiến sỹ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Trước tình hình trên, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều quyết định
với những chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sỹ, góp phần
ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, gia đình liệt sỹ.
Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL,
quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp
quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sỹ
đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến
thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ.
Tháng 6-1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu
quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt
Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc
Thái) để bàn về công tác thương binh, liệt sỹ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ
Tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh Liệt sỹ. Tại cuộc họp này các
đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 là ngày “Thương binh toàn quốc”. Từ
đó hàng năm cứ vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư, quà thăm hỏi,
động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia
đình liệt sỹ. Đặc biệt, từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ và Chủ
tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, liệt sỹ.
Từ tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi “Ngày
Thương binh toàn quốc” thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” để ghi nhận những hy
sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn
dân tộc.
Sau ngày giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8-7-1975 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hằng năm chính thức
trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” của cả nước.
Mỗi năm cứ
đến “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” nhất là vào dịp kỷ niệm năm tròn, toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại tổ chức nhiều hoạt động thiết thực,
đầy tình nghĩa chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách
mạng.
* Ý nghĩa ngày Thương binh liệt sỹ
Ngày Thương binh Liệt sỹ có ý nghĩa lịch sử, chính trị, xã
hội sâu sắc, đó là:
Truyền thống
“hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đối với những người đã hi sinh, cống hiến vì độc lập, tự do và thống nhất của
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; qua đó phát huy tinh thần yêu nước, củng cố
và bồi đắp niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã
lựa chọn.
Tôn vinh các anh hùng, liệt sỹ, thương binh và người có công;
khẳng định sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân
tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là vô giá. Việc chăm sóc thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công là vinh dự, là trách nhiệm
của các cấp, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội và của mọi
người, của thế hệ hôm nay và mai sau.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trân trọng đánh giá cao những cống
hiến, hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sỹ đối với Tổ quốc; đồng
thời cũng luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công
dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế
hệ cách mạng đối với thương binh, liệt sỹ và người có công với cách
mạng.
BBT.